Chè Thái Nguyên được người Việt dùng suốt năm, suốt tháng, hàng ngày, từ quán trà đá vỉa hè bên đường đến những ấm trà trong các gia đình hay cả những nhà hàng sang trọng. Nhâm nhi chén trà là khởi đầu cho những cuộc gặp gỡ, hội ngộ để hàn huyên của bạn bè tri kỷ, của những cuộc giao lưu bất chợt không quen biết đôi khi lại trở thành những người thân thiết.
Ở Việt Nam có phong cách uống trà thể hiện phong phú những khía cạnh văn hóa ửng xử của người dân Việt. Cây trà (chè) Việt đã trở thành một thứ cây khởi nguồn thường nhật, một thức uống không thể thiếu của người Việt.
Chè Thái Nguyên – thức uống tốt cho sức khỏe con người:
Hiện nay các nhà khoa học đã chứng minh được chè xanh là kho tàng của các hoạt chất sinh học, điển hình như các polyphenols, vitamin, flour … tất cả có 12 nhóm hoạt chất có trong cây chè.
Trà có khả năng kích thích lao động và đem lại niềm vui, uống chè có lợi cho hô hấp và tim mạch, trà có khả năng ức chế, ngăn ngừa sự phát triển của tế bào ung thư vì trà có chứa một loại dược tính là EGCG, loại chất có khả năng từ ngăn cản tế bào ung thư đến chặn đứng sự di căn của các khối u. EGCG có sức sống chất oxy hóa mạnh gấp 100 lần vitamin C và gấp 25 lần so với vitamin E.
Mỗi quốc gia có cách uống trà của riêng mình.
Trên thế giới có rất nhiều quốc gia trồng chè và mỗi nơi cũng sẽ có những cách thức uống riêng .
Cách thức thưởng trà được nâng lên thành nghệ thuật khi có ở Trung Hoa và Nhật Bản, nơi đã từng coi trà như một tôn giáo của họ ( Trà Kinh, Trà Đạo)
Còn ở Việt Nam có phong cách uống trà ( Phong trà), thể hiện phong phú những khía cạnh văn hóa ứng xử của người dân Việt. Và cách ẩm trà của người Việt cũng rất độc đáo,, các bậc tiền nhân cho rằng, ẩm trà là một nghệ thuật, mà đã là nghệ thuật thì cũng chẳng có công thức chung nào.
Vì lẽ đó, các bậc tiền nhân trước khi uống thường đưa qua mũi để tận hưởng hương vị trà, sau mới hạ dần xuống miệng, môi nhấp ngụm nhỏ, thấy đắng chát, miệng chép mấy cái đã thấy dịch vị trong miệng tiết ra có vị ngọt dịu, lòng sảng khoái luận về trà.
Người Việt dùng trà mộc ( là loại trà chưa được ướp với nguyên liệu khác nhau thành trà sen, trà nhài, trà long nhãn, trà nhân sâm…). Mỗi loại trà làm nên một hương vị khác nhau, trong đó trà sen là thứ trà quý nhất, ngày xưa chỉ có bậc vua chúa mới được thưởng thức.
Người Việt Nam thường hưởng trà theo cách độc ẩm (một mình), đối ẩm (2 người) hay quần ẩm (nhiều người) thể hiện văn hóa thuần chất của mình, đồng thời vẫn còn có những tiêu chuẩn về chất lượng cũng như vị thế của việc thưởng trà.
Nước dùng pha trà thường phải là nước mưa được hứng giữa trời hay từ các suối nguồn tự nhiên. Cách đun nước cũng phải đảm bảo giữ được độ thanh tĩnh và không làm ảnh hưởng đến hương vị của trà. Những người có thú đam mê uống trà ngày nay đã đề ra 5 chuẩn mực về cách chọn trà ngon : “sắc-thanh-khi-vị-thần”, nhưng với những người sành tà thì trà mộc móc câu ( cánh trà sao khô quăn lại giống như hình móc câu) là loại trà quý nhất.
Tam bôi, tứ bình đó chính là bộ đồ pha và uống trà, có ấm và 4 chén quân, một chén tổng để chuyên trà. Chén quân thường là chén hạt mít, bình cũng có bình chuyên, bình tống, tùy theo lối uống “độc ẩm, song ẩm, tứ ấm, quần ẩm” để chọn loại bình tương ứng.
Tìm bạn trà đôi khi khó hơn tìm bạn rượu, vì bạn trà là người bạn tri âm, cùng nhau hưởng trà, ngâm thơ, bộc bạch nỗi lòng, chuyện gia đình, xã hội, nhân tình thế thái để cảm nhận trong trà có trời đất, cỏ cây.
Người thưởng trà thực sự là người chọn thời điểm uống trà vào lúc mờ sáng (4-5h sáng), khi thời khắc âm dương giao hòa, uống trà vào thời khắc này sẽ có lợi cho sức khỏe và tâm hồn, hướng người thưởng trà tới những điều tốt đẹp.
Không gian thưởng trà của người Việt cũng đòi hỏi có không gian rộng để tận hưởng hết sự tinh túy của trà. Không gian thưởng trà thường mang hơi hướng của văn hóa thiền, là không gian thanh tịnh, thuần khiết. Lý tưởng nhất là những nơi có khung cảnh thiên nhiên đẹp, tự nhiên, yên tĩnh, bên trong có thư pháp, góc đọc sách hoặc bàn cờ.
Chính vì vậy văn hóa trà Việt đã được người đời tổng kết vừa có nét cầu kỳ, vừa mang tính dân dã.